Characters remaining: 500/500
Translation

Nguyễn Phúc Chu

  1. (ất Mão 1675 - ất Tị 1725)
  2. Chúa thứ 6 thời các chúa Nguyễn, con cả của Anh tông Nguyễn Phúc Trăn, mẹ Tống Thị. Thuở nhỏtrong cung, ông chăm học, chữ tốt, tài kiêm văn được phong Tả bính dinh Phó tướng, Tộ Trường Hầu
  3. Năm Tân Mùi 1691, chúa Anh tông mất, ông lên kế vị, triều thần tôn Bình Chương quân quốc trọng sự Thái bảo Tộ quốc Công, hiệu Thiên túng đạo nhân, đường thời gọi là Minh vương. Sau khi hết tang cha, được tôn làm Thái phó, Quốc Công, tôn hiệu Quốc chúa. Từ đấy trong các sắc dụ về nội trị, ngoại giao đều xưng Quốc chúa
  4. Thời ông cầm quyền, phía Bắc vẫn giữ biên thùy với chúa Trịnh, phía Nam ông đưa nhân dân đến các vùng đất mới phương Nam khai khẩn đất hoang sát biên giới Chân Lạp. Trong nước việc nội trị, bị, giáo dục được phát triển qui mô. Các năm Nhâm Ngọ, Quý Mùi (1702-1703) tàu biển nước ngoài đến cướp phá các hải đảo các cửa khẩu đều bị dẹp tan
  5. Năm Vĩnh Thịnh thứ tư, 1708, Mạc Cửu, người Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, trước đó đến khai thác vùng đất Tiên dâng thư lên triều đình xin đem đất này qui thuộc chúa Nguyễn. Ông nhận lời trao cho Mạc Cửu chức Tổng binh trấn giữ đất Tiên
  6. Ông người sùng đạo Nho, mộ đạo Phật, học rộng, hiểu nhiều cũng tác giả nhiều thơ văn giá trị Chính ông đã đề tựa "Bản sư" sách Hải ngoại sự của Hòa thượng Thích Đại Sán (1633-1704). Đời ông cầm quyền, Nam Bắc hòa bình được nhiều năm, nhân dân trong nước sống yên ổn hạnh phúc
  7. Năm Bảo Thái thứ 6 (ất Tị 1725) ông mất, ở ngôi 34 năm, thọ 51 tuổi, con trai con gái tất cả 146 người. Sau khi mất được triều đình dâng thụy hiệu Đô nguyên súy Tổng quốc chính Minh Vương, truy tôn Hiến tông Hiếu minh Hoàng đế, đường thời gọi là Quốc Chúa. Thi hài an tángnúi Kim Ngọc, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên, phi (vợ chính) được truy tôn Từ Huệ cung Thục kinh phi

Comments and discussion on the word "Nguyễn Phúc Chu"